I. THÔNG TIN TRONG NƯỚC

1. Chuyên đề: Tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng

          Trong mọi giai đoạn cách mạng, tự phê bình và phê bình là việc làm không thể thiếu trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng ta, giúp cán bộ, đảng viên thấy được những ưu, khuyết điểm của mình, tìm ra các phương pháp, cách thức để khắc phục; qua đó, góp phần củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng.
          * “Tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng”

          Sinh thời, trong quá trình xây dựng và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng. Bởi “thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng” (1).

          Người khẳng định “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” (2).

          Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra mục đích của tự phê bình và phê bình “cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ” (3); mục đích của tự phê bình và phê bình còn nhằm tăng cường sức mạnh đoàn kết của Đảng: "Muốn đoàn kết chặt chẽ phải thật thà tự phê bình, thành khẩn phê bình đồng chí và những người xung quanh, phê bình, tự phê bình để cùng nhau tiến bộ, để đi đến đoàn kết" (4).

          Để đạt được mục đích đó cần phải cần phải nắm vững phương pháp và nghệ thuật phê bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: “phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người. Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí hoặc oán ghét” (5). Phương pháp và nghệ thuật ở đây còn thể hiện trong việc tác động vào ý thức tự giác của con người để bản thân họ tự nhận thấy khuyết điểm mà tự giác sửa chữa như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Ta phải biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sửa chữa” (6).

          Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, trong mọi giai đoạn cách mạng, tự phê bình và phê bình là việc làm không thể thiếu trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng ta, góp phần làm cho cán bộ, đảng viên thấy được những ưu, khuyết điểm của mình, tìm ra các phương pháp, cách thức để khắc phục. Nội dung tự phê bình và phê bình trong Đảng bao gồm toàn bộ các mặt hoạt động của Đảng và của mọi cán bộ, đảng viên. Phương pháp tự phê bình và phê bình cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo và khéo léo về cách thức tiến hành.

          Trong quá trình cách mạng, không phải Đảng không mắc phải những sai lầm, khuyết điểm. Tuy nhiên, Đảng đã luôn nhận ra và dũng cảm đối mặt với những sai lầm ấy. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đại hội VI của Đảng mở đầu cho một thời kỳ nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật. Đảng ta đã nghiêm túc tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế-xã hội và những khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng. Trong hoạt động của các tổ chức Đảng, tự phê bình và phê bình đã được coi trọng, duy trì đều đặn, thực hiện nghiêm túc.

          Đặc biệt, tự phê bình và phê bình đã được quy định là một trong những nội dung chính của sinh hoạt Đảng. Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (tháng 10-2012), các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trước hết là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước đã cam kết với Ban Chấp hành Trung ương: "Luôn thực sự gương mẫu, thực sự đoàn kết, thống nhất, đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích cá nhân, hết lòng, hết sức vì Đảng, vì dân… Thực hành tự phê bình, phê bình thẳng thắn, thương yêu đồng chí, khắc phục ngay tình trạng nể nang, né tránh. Gương mẫu học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" (7).

          * Các đồng chí lãnh đạo phải là tấm gương trong thực hiện tự phê bình và phê bình

          Hiện nay, công tác tự phê bình và phê bình ở mỗi Đảng viên luôn được các cấp ủy, tổ chức Đảng quan tâm. Nhiều tổ chức Đảng thường xuyên giáo dục cho đảng viên thấy rõ sự cần thiết phải tăng cường tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt để các đảng viên thống nhất tư tưởng và hành động, khắc phục những biểu hiện buông lỏng sinh hoạt Đảng, coi nhẹ tự phê bình và phê bình. Qua công tác tự phê bình và phê bình, các đảng viên đã thấy được những điểm mạnh để phát huy, những điểm hạn chế để sửa chữa khắc phục. Từng cá nhân đảng viên qua công tác phê bình còn có thể khắc phục khuyết điểm trên từng công việc và lĩnh vực được giao.

          Tuy nhiên, công tác phê bình và tự phê bình trong Đảng vẫn tồn tại hạn chế. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã thẳng thắn nhìn nhận những khuyết điểm, hạn chế của công tác này, đó là: “Việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình tuy đã có chuyển biến, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, vẫn là khâu yếu trong sinh hoạt Đảng; chưa trở thành nhiệm vụ thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình ở một số nơi bị buông lỏng trong thực hiện, chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát. Ở nhiều cấp ủy, tổ chức Đảng, tự phê bình và phê bình chủ yếu được thực hiện vào dịp kiểm điểm cuối năm, chưa trở thành việc làm thường xuyên, hằng ngày. Nhiều đảng viên, nhất là các đảng viên trẻ, đảng viên mới kết nạp ít thể hiện quan điểm, chính kiến. Nội dung, hình thức tự phê bình và phê bình nhiều khi chưa đúng thực chất, thường vòng vo, né tránh, thậm chí ở một số nơi còn có sự nể nang, hoặc “dĩ hoà vi quý”, làm cho uy tín, sức chiến đấu của tổ chức Đảng bị giảm sút, vừa làm mất lòng tin của quần chúng nhân dân, vừa làm sai lệch trong nhận xét, đánh giá cán bộ, dẫn đến những hệ lụy, sai phạm khác trong công tác cán bộ và trong xây dựng tổ chức Đảng. Cũng từ những hạn chế đó, một số cấp ủy, tổ chức Đảng chưa chủ động phát hiện, phòng ngừa và hạn chế các vụ việc tiêu cực, sai phạm của đảng viên” (8).

          Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016 về một số vấn đề cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên. Trong đó tự phê bình và phê bình là nhóm nội dung quan trọng được đưa vào quy định. Theo đó, các đồng chí lãnh đạo phải là tấm gương trong thực hiện tự phê bình và phê bình để cấp dưới làm theo. Trong tự phê bình và phê bình phải thực sự cầu thị, tự giác, chân thành, khách quan; khi có khuyết điểm phải nhận khuyết điểm và phải có kế hoạch sửa chữa.

          Để thực sự nêu gương tự phê bình và phê bình, đòi hỏi mỗi tổ chức cũng như mỗi cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ cấp cao, chủ chốt đứng đầu cần tự giác, trung thực, tự phê bình thật nghiêm túc, khách quan có lý có tình, mang tính xây dựng. Tập trung kiểm điểm về trách nhiệm đối với công việc và nhiệm vụ của đơn vị; về phẩm chất cá nhân của mình trên tất cả các mặt từ nhận thức, tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, đến quan hệ với quần chúng... Thấy rõ ưu điểm để phát huy, nhận ra khuyết điểm để sửa chữa; đồng thời, coi trọng sự giáo dục, sự giúp đỡ chân thành của đồng chí, đồng nghiệp, học tập lẫn nhau; phải thực hiện phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”; khi có bệnh thì phải kiên quyết “trị bệnh cứu người”, không được có tư tưởng dễ dãi, bao che, hoặc tranh công, đổ tội. Cùng với đó, cần xử lý nghiêm minh những biểu hiện thành kiến, trù dập người dám phê bình và có những hình thức kỷ luật thích đáng đối với những người lợi dụng phê bình để đạt mục đích tự tư tự lợi, để gây chia rẽ mất đoàn kết nội bộ, để phá hoại Đảng.

 (1): Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611

(2): Sđd, t.5, tr.301

(3), (5): Sđd, t. 5, tr. 272

(4): Sđd, t. 10, tr 584

(6): Sđd, t.5, tr.284

(7):Thông báo Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI

(8): Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội địa biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.336, 337

2. Các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, quy định mới của Trung ương

2.1. Quy định mới về đảng viên đang công tác giữ mối liên hệ với tổ chức Đảng và nhân dân nơi cư trú (Có văn bản kèm theo)

2.2. Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Nghị quyết đưa ra mục tiêu tổng quát: Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, có chất lượng cao với giá cả hợp lý cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Ngành năng lượng phát triển hài hòa giữa các phân ngành với hạ tầng đồng bộ và thông minh, đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN. Xây dựng thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước kết hợp với xuất, nhập khẩu năng lượng hợp lý; triệt để thực hành tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng. Chủ động sản xuất được một số thiết bị chính trong các phân ngành năng lượng; nâng cấp, xây dựng lưới điện truyền tải, phân phối điện tiên tiến, hiện đại.

Nghị quyết cũng đưa ra 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cho định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

3. Chuyên đề: Tuyên truyền phòng chống dịch Covid -19-

3.1. Chống dịch nhưng không kỳ thị

          Cuộc chiến với dịch bệnh COVID-19 vẫn đang diễn biến phức tạp và đầy cam go. Tuy nhiên, từ châu Á tới châu Âu, các chính khách hay chuyên gia đều nhận định, tâm lý kỳ thị hay chia sẻ các tin tức giả mạo trên mạng xã hội đang góp phần làm trầm trọng thêm dịch bệnh. Để đối phó với nỗi lo sợ và xóa bỏ tâm lý kỳ thị, không có cách nào tốt hơn là hiểu biết rõ về dịch bệnh.

* Càng kỳ thị chống dịch càng kém hiệu quả

Trong gần 2 tháng qua, COVID-19, hay còn gọi là virus corona, là cái tên được nhắc đến nhiều nhất, được quan tâm lo lắng nhất của toàn thế giới. Xuất hiện từ cuối tháng 12-2019, COVID-19 đã khiến 76.225 người nhiễm bệnh và 2.247 người tử vong. Tính ngoài Trung Quốc đại lục, đã có 30 quốc gia và vùng lãnh thổ xác nhận có người nhiễm bệnh với tổng số 1.213 người và 11 ca tử vong (tính đến sáng 21/02/2020). Theo Trung tâm Phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh Trung Quốc, tỷ lệ tử vong do dịch COVID-19 hiện là 2,3%, và chưa đến 1% đối với những người trong độ tuổi 30-40; phần lớn các ca nhiễm COVID-19 đều nhẹ và tỷ lệ tử vong thấp. Các quan chức Tổ chức Y tế thế giới (WHO) nhấn mạnh, tỷ lệ này thấp hơn dịch Hội chứng viêm đường hô hấp cấp (SARS) và Hội chứng hô hấp cấp vùng Trung Đông (MERS) cũng do virus corona gây ra.

Tại Mỹ hay châu Âu, tuy COVID-19 chưa đe dọa nhiều đến các nước này, cuộc sống của dân cư hầu như không thay đổi, nhưng đối với một bộ phận người dân, những người đến từ Trung Quốc, hoặc thường xuyên du lịch tới đó, hay các nhân viên y tế chịu trách nhiệm chống dịch, cuộc sống của họ lại bị đảo lộn vì Covid-19. Nhiều người Mỹ, người Âu gốc Á bị soi xét và xa lánh. Thậm chí, ngay cả những sinh viên, du học sinh cũng bị dè chừng chỉ vì họ là người gốc Á, nơi bị coi là “nguồn cơn” của COVID-19.

Ngay tại Việt Nam, trước thông tin cách ly toàn bộ người dân xã Sơn Lôi, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc để phòng chống dịch COVID-19, nhiều người tỏ ra lo ngại khi tiếp xúc với người đến từ Vĩnh Phúc, thậm chí tỏ thái độ kỳ thị. Về nguyên tắc, khi người bệnh hết virus có nghĩa hệ miễn dịch đã đủ mạnh để quét sạch virus, họ sẽ không phát tán virus, không lây bệnh cho người khác và cho cộng đồng.

Theo Ths.BS Nguyễn Trung Cấp, Trưởng khoa Cấp cứu, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, việc càng kỳ thị thì chống dịch sẽ càng kém hiệu quả. Vì kỳ thị sẽ dẫn đến việc một số bệnh nhân sợ không dám đi khám, họ sợ bị cách ly, bị cộng đồng xa lánh, xua đuổi, hoặc có cả trường hợp giấu bệnh. Nếu chúng ta không giải quyết được vấn đề tâm lý này, thì vấn đề khoanh vùng, chữa trị sẽ vô cùng khó khăn. Do vậy, để làm tốt công tác chống dịch cộng đồng phải xóa bỏ sự kỳ thị.

Để đối phó với nỗi lo sợ và xóa bỏ tâm lý kỳ thị, người dân không có cách nào tốt hơn là hiểu biết rõ về dịch bệnh. Các thông tin hiện nay đã rất đầy đủ trên các phương tiện truyền thông và các băng-rôn, tờ rơi tuyên truyền… Người dân nên tiếp nhận những thông tin này và bình tĩnh đối phó với dịch bệnh thay vì có thái độ sợ hãi, xa lánh từ đó khiến tình hình dịch bệnh có thể trở nên trầm trọng hơn. Sự quan tâm, lo lắng của cộng đồng với dịch bệnh là cần thiết, nhưng nó phải xuất phát trên cơ sở hiểu biết thay vì hoảng loạn trước các nguồn tin không chính thống, sai lệch dẫn đến sự rối loạn và gây ảnh hưởng tới nhịp sống hàng ngày của mỗi người và ảnh hưởng tới công tác chống dịch chung của cả đất nước.

Trong bối cảnh diễn biến dịch phức tạp ở nhiều quốc gia trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã ghi nhận Việt Nam đã xử lý dịch bệnh này rất tốt. Chính phủ Việt Nam đã khởi động hệ thống ứng phó ở giai đoạn đầu của dịch - tăng cường giám sát, đảm bảo phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn, quản lý ca bệnh tại các cơ sở y tế và tăng cường xét nghiệm bên cạnh thực hiện các hoạt động truyền thông và hợp tác đa ngành. WHO đánh giá, năng lực của Việt Nam trong việc xử trí các vấn đề y tế công cộng khẩn cấp, kể cả các đợt bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm mới nổi đã tăng lên đáng kể.

3.2. Việt Nam tiếp tục kiểm soát tốt dịch bệnh COVID-19

          Tính đến nay, Việt Nam đã điều trị thành công và cho xuất viện 16/16 ca mắc dịch bệnh COVID-19. Có được kết quả đáng ghi nhận trên, trước hết là nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc của các bộ ngành và nỗ lực của các thầy thuốc, sự hợp tác của người bệnh và đồng lòng của người dân từ việc cách ly điều trị ban đầu cho đến triển khai đồng bộ các giải pháp trong điều trị.

          Với tinh thần quyết liệt “chống dịch như chống giặc”, “không được chủ quan, không để dịch lây lan” và “chấp nhận một số thiệt hại về kinh tế để bảo vệ tính mạng, sức khỏe người dân”, ngay từ những ngày đầu, khi có thông tin về dịch bệnh, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt ngành y tế và các bộ, ngành liên quan phòng chống dịch COVID-19. Có thể thấy, trong bối cảnh diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 tại Trung Quốc và trên thế giới, hệ thống y tế, ngành Y tế Việt Nam đã không chỉ cho thấy tinh thần trách nhiệm cao, mà còn khẳng định được năng lực sẵn sàng ứng phó và kiểm soát các vấn đề y tế khẩn cấp. Đến giờ phút này chưa có thầy thuốc nào tại Việt Nam bị nhiễm COVID-19. Đặc biệt, không chỉ ở tuyến trung ương, tuyến tỉnh mà tuyến huyện của Việt Nam cũng có khả năng chữa khỏi bệnh cho những người bị nhiễm COVID-19.

          Cùng với ngành y tế, quân đội cũng đã có những đóng góp quan trọng mang yếu tố quyết định đến thành công trong việc ngăn chặn dịch bệnh lây lan trong cộng đồng. Trong những ngay qua, toàn quân đã thành lập, kiện toàn 7 bệnh viện, 14 tổ chuyên khoa tăng cường của các bệnh viện quân y, 5 đội phòng, chống dịch, 154 tổ phòng, chống dịch, 20 đội cơ động phòng, chống dịch của các bệnh viện; chuẩn bị đủ số giường sẵn sàng tiếp nhận, cách ly, điều trị người bệnh. Đặc biệt, trên tuyến biên giới, Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng đã chỉ đạo Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng các tỉnh, thành phố phối hợp với các lực lượng chức năng tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương tăng cường kiểm soát, chốt chặn trên toàn tuyến biên giới, ngăn chặn xuất nhập cảnh trái phép qua các đường mòn, lối mở, thực hiện hiệu quả công tác sàng lọc, tổ chức cách ly y tế đối với các trường hợp nghi ngờ nhiễm bệnh.

          Song song với sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt của các bộ ngành, địa phương là sự đồng hành với ý thức trách nhiệm cao của người dân trong việc hợp tác cùng chính quyền thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch bệnh. Bên cạnh thực hiện tốt những biện pháp phòng, chống dịch, nhiều tổ chức cá nhân còn có những nghĩa cử cao đẹp như: phát khẩu trang miễn phí, tặng nước rửa tay, quyên góp, hỗ trợ người dân tại các địa phương có dịch, nhất là đối với xã Sơn Lôi, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc - nơi có số người nhiễm bệnh nhiều nhất nước.

          Kết quả công tác phòng, chống dịch COVID-19 của Việt Nam đã được WHO ghi nhận và đánh giá cao. WHO ghi nhận, Việt Nam đã xử lý dịch bệnh này rất tốt. Chính phủ đã khởi động hệ thống ứng phó ở giai đoạn đầu của dịch - tăng cường giám sát, đảm bảo phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn, quản lý ca bệnh tại các cơ sở y tế và tăng cường xét nghiệm bên cạnh thực hiện các hoạt động truyền thông và hợp tác đa ngành. WHO đánh giá, năng lực của Việt Nam trong việc xử trí các vấn đề y tế công cộng khẩn cấp, kể cả các đợt bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm mới nổi đã tăng lên đáng kể.

          3.3. Tiếp tục kiểm soát tốt dịch bệnh, đồng thời nỗ lực thực hiện các mục tiêu tăng trưởng

          Mặc dù Việt Nam đạt được nhiều kết quả khả quan, song Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 nhận định tình hình diễn biến dịch bệnh ở nước ngoài còn phức tạp nên công tác phòng, chống dịch bệnh không được chủ quan; tiếp tục kiên trì và thực hiện tốt công tác rà soát, cách ly y tế.

          Bên cạnh đó, Ban Chỉ đạo đề nghị ngành y tế, các nhà khoa học tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu; dựa trên kinh nghiệm trong nước và quốc tế sớm hoàn thiện phác đồ điều trị; xây dựng các điều kiện, giải pháp dự phòng hiệu quả, qua đó, bảo đảm nếu phát hiện ra người nhiễm COVID-19 lập tức cách ly dự phòng trong cộng đồng và tập trung chữa khỏi dịch bệnh. Lực lượng quân đội Việt Nam tiếp tục kiểm soát tốt đường biên giới; thực hiện hiệu quả công tác sàng lọc, tổ chức cách ly y tế đối với các trường hợp nghi ngờ nhiễm bệnh.

          Ngoài nhiệm vụ phòng, chống dịch, tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về công tác phòng, chống dịch COVID-19 (ngày 17/02/2020), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ, cần thực hiện tích cực, hành động quyết liệt hơn nữa để năm 2020 hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội mà Quốc hội đã thông qua. Thủ tướng nhấn mạnh, đẩy lùi được dịch thì mới thành công một nửa. Yêu cầu lớn hơn của Chính phủ là phải giảm thiểu tác động đến đời sống người dân và nền kinh tế, kiên quyết giữ vững và phấn đấu hoàn thành các mục tiêu tăng trưởng mà Quốc hội đề ra. Như vậy mới gọi là thành công trọn vẹn.

          Trong những ngày qua, cùng với việc quyết liệt phòng tránh dịch bệnh, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh các giải pháp phát triển kinh tế-xã hội, giảm thiểu tối đa thiệt hại do dịch bệnh gây ra. Thực hiện chỉ đạo đó, nhiều bộ ngành như: công thương, nông nghiệp, du lịch... đã tổ chức họp bàn, đánh giá tác động của dịch bệnh, từ đó đề ra những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục khó khăn, nỗ lực vượt qua thách thức. Đáng ghi nhận, có ngành, doanh nghiệp còn chuyển thách thức thành cơ hội, nỗ lực xử lý các vấn đề ảnh hưởng đến tăng trưởng chung của nền kinh tế, hướng đến sự phát triển bền vững. Đến nay, nhiều chuyến hàng xuất khẩu nông sản bằng đường biển, đường bộ được khơi thông...

          Đồng thời, Chính phủ cũng chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thể hiện quyết tâm chính trị, khẩn trương triển khai quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế-xã hội năm 2020 với tinh thần chủ động, tích cực hơn, năng động, sáng tạo, nhạy bén hơn, có đối sách phù hợp, kịp thời bù đắp được những thiệt hại do dịch bệnh gây ra trên các lĩnh vực...

3.4. Hàn Quốc – “điểm nóng mới” của COVID-19 và khuyến cáo đối với người lao động Việt Nam tại Hàn Quốc

          Sau Trung Quốc, Hàn Quốc đang trở thành điểm nóng có số ca nhiễm chủng mới của vius Corona nhiều nhất trên thế giới. Tính đến chiều ngày 23/02, Cơ quan Y tế Hàn Quốc cho biết nước này đã ghi nhận thêm 46 trường hợp nhiễm COVID-19, nâng tổng số ca nhiễm bệnh trên toàn quốc tăng vọt lên 602 ca. Đã có  5 ca tử vong do COVID-19. Toàn bộ 17 tỉnh thành Hàn Quốc đều đã có ca nhiễm bệnh. Tình trạng lây lan nhanh chóng của dịch đã khiến chính quyền Hàn Quốc phải nâng mức cảnh báo lên mức cáo nhất là “mức đỏ”.

          * Hàn Quốc-“điểm nóng” mới của dịch COVID-19

          Dịch bệnh viêm phổi lạ bắt nguồn từ thành phố Vũ Hán (tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc) do virus corona gây ra từ cuối tháng 12/2019. Đây là căn bệnh gây ra bởi chủng virus hoàn toàn mới thuộc họ corona, hiện được WHO đặt tên là COVID-19. Virus này có thể truyền từ người sang người, có khả năng biến thể và lây bệnh trên quy mô lớn.

          Kể từ cuối tháng 12/2019, dịch đã lan rộng và diễn biến phức tạp ở Trung Quốc, đặc biệt là tại thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, nơi được xem là “tâm dịch”. Đến nay, dịch còn lây lan sang 33 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Điều đáng lo ngại là, trong khi số ca nhiễm mới và tử vong do COVID-19 được ghi nhận là đang giảm mạnh ở Trung Quốc thì dịch lại đang có dấu hiệu bùng phát mạnh ở Hàn Quốc.

          Hàn Quốc đã báo cáo trường hợp đầu tiên vào ngày 20/01, đây là một phụ nữ 35 tuổi đến từ Vũ Hán. Tuy nhiên, bất chấp các biện pháp cách ly và tăng cường, số ca nhiễm bệnh mới và tử vong vì COVID-19 tại Hàn Quốc đã tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là trong vài ngày qua. Ngày 22/02, dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 đã lan ra toàn bộ 17 tỉnh, thành trên Hàn Quốc, trong đó ghi nhận lần đầu xuất hiện ở một số địa phương như tỉnh Gangwon, thành phố Sejong, thành phố Ulsan… Chỉ trong ngày 22/02, số ca nhiễm COVID-19 tại Hàn Quốc đã lên gấp hơn 2 lần - tốc độ nhanh nhất kể từ khi dịch bệnh bùng phát tại nước này vào cuối tháng 1.

           Tính đến chiều ngày 23/02, tổng số ca nhiễm bệnh trên toàn quốc tăng vọt lên 602 ca, trong đó có 5 ca tử vong do COVID-19. Hầu hết các trường hợp nhiễm COVID-19 đều liên quan đến một tổ chức tôn giáo ở thành phố lớn thứ 4 của Hàn Quốc là Daegu và một bệnh viện lân cận ở thành phố Cheongdo, cách thủ đô Seoul khoảng 300 km về phía Đông Nam.  

          Một trong những nguyên nhân được xem là khiến số ca mắc COVID-19 tại Hàn Quốc tăng vọt trong những ngày gần đây là do một người phụ nữ, 61 tuổi, nhiễm COVID-19 song từ chối làm xét nghiệm nên đã làm lây nhiễm bệnh cho nhiều người khác sau khi bà này tham gia vào một buổi lễ cầu nguyện của giáo phái có tên Shincheonji (Tân Thiên Địa) hồi tuần trước ở Deagu. Bệnh nhân này không hề đi ra nước ngoài trong thời gian gần đây và bị chẩn đoán mắc bệnh COVID-19 vào tuần trước. Tuy nhiên, việc người phụ nữ này từ chối làm xét nghiệm và tham dự ít nhất 4 lễ cầu nguyện tại nhà thờ của Shincheonji trước khi bị xác định dương tính với COVID-19 vào ngày 18-2 đã khiến hầu hết các ca nhiễm COVID-19 hiện nay ở Hàn Quốc đều là những người có liên quan đến giáo phái Shincheonji.

          Trong bối cảnh đó, hiện Trung tâm Kiểm soát và Ngăn ngừa Dịch bệnh Hàn Quốc (KCDC) đã đặt 9.336 thành viên của giáo phái có tên Shincheonji (Tân Thiên Địa) ở nước này vào diện tự cách ly. Toàn bộ số người này đã bị cách ly tại nhà với sự theo dõi chặt chẽ của giới chức địa phương. Trong khi đó, 544 người thuộc giáo phái Shincheonji nghi nhiễm bệnh cũng đã được cho xét nghiệm virus corona.

          Giáo phái Shincheonji, với 245.000 tín đồ tại Hàn Quốc, hiện cũng đã tuyên bố đóng cửa toàn bộ 74 nhà thờ trên toàn quốc và yêu cầu các thành viên ở nhà cầu nguyện, xem nghi thức qua trang mạng Youtube thay vì tụ tập đông người.
          Về phía chính phủ, trước tình hình dịch lây lan nhanh, ngày 23/02, Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in thông báo chính quyền đã nâng cảnh báo về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới virus corona (Covid-19) lên mức cao nhất là “mức đỏ”.  Phát biểu sau cuộc họp của chính phủ về Covid-19, Tổng thống Moon Jae-in nói: “Dịch Covid-19 đang ở thời điểm phát triển mạnh mẽ. Trong vài ngày tới, dịch bệnh sẽ vô cùng nghiêm trọng. Chính phủ đã nâng cảnh báo lên mức cao nhất theo khuyến cáo của các chuyên gia”.

          Trước đó, Thủ tướng Hàn Quốc Chung Sye Kyun ngày 22/02 cũng thừa nhận đợt bùng phát COVID-19 tại nước này đang bước vào tình huống “nghiêm trọng”. Ông Chung Sye Kyun khẳng định chính phủ đang nỗ lực hết sức để ngăn dịch lây lan. Ông cũng hối thúc người dân hạn chế dự các sự kiện đông người như sự kiện tôn giáo, hoặc cân nhắc các biện pháp khác như họp trực tuyến, đồng thời khẳng định Hàn Quốc sẽ mạnh tay với các hành động cản trở nỗ lực chặn dịch của chính phủ, như tích trữ đầu cơ các sản phẩm vệ sinh hoặc tuần hành đông người.

          Đảng Dân chủ cầm quyền Hàn Quốc ngày 23/02 cũng đã yêu cầu chính phủ soạn thảo tờ trình ngân sách bổ sung để sử dụng trong nỗ lực ngăn chặn dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 đang lây lan nhanh chóng ở Hàn Quốc. Trong ngày 23/02, Quốc hội Hàn Quốc còn tổ chức phiên họp toàn thể để thảo luận về các biện pháp “mạnh mẽ” bao gồm việc thành lập Ủy ban đặc biệt của Quốc hội chống COVID-19.

          Các thành phố của Hàn Quốc cũng đã ban hành các lệnh cấm nhằm tránh sự lây lan của dịch do COVID-19. Thủ đô Seoul hiện đã cấm biểu tình, tụ tập đông người tại 3 quảng trường ở thủ đô và ngưng hoạt động của Shincheonji cùng một số tổ chức tôn giáo khác trong thành phố.

          Giới chức Hàn Quốc cũng đã thiết lập “khu vực chăm sóc đặc biệt” đối với thành phố Daegu  (với dân số 2,5 triệu người) và huyện Cheongdo thuộc tỉnh Bắc Gyeongsang kế bên (với dân số khoảng 43.000 người) nhằm ngăn dịch lây lan. Lệnh cách ly đặc biệt cũng được áp dụng đối với Bệnh viện Daenam tại Cheongdo, nơi đã có tới hơn 100 ca nhiễm và 4 ca tử vong.

          Daegu là thành phố lớn thứ tư của Hàn Quốc chỉ sau Thủ đô Seoul, thành phố Busan và thành phố Incheon, đồng thời là khu vực đô thị lớn thứ ba cả nước. Hiện Daegu đã thực hiện các biện pháp tạm thời đóng cửa các địa điểm công cộng, thu hút lượng lớn người tập trung, như thư viện, các trường học, tòa án, tạm thời chặn một số lối vào các toà nhà tổ hợp và lắp đặt camera hồng ngoại... Trong khi các trường học từ cấp mầm non, tiểu học đến trung học đã đưa ra kế hoạch tạm hoãn kỳ học mùa Xuân dự kiến sẽ bắt đầu trong 1 tuần nữa. Lực lượng quân đội cũng được giới hạn trong các doanh trại. Hiện chỉ còn các siêu thị vẫn mở cửa để phục vụ cư dân thành phố bắt đầu xếp hàng để mua thực phẩm và các vật tư khác…

          Đáng chú ý, Cục Quản lý xuất nhập cảnh (Bộ Tư pháp Hàn Quốc) đã thông báo chính thức: công dân nước ngoài đang cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc nếu có các dấu hiệu lây nhiễm khi đến khám, điều trị tại các cơ sở y tế sẽ không bị truy cứu về tình trạng cư trú, không bị trục xuất. Hàn Quốc cũng khuyến khích những người này hãy đến cơ sở y tế gần nhất để khám và điều trị nếu tiếp xúc với người nhiễm virus COVID-19 hoặc nghi ngờ bị lây nhiễm.

          * Khuyến cáo người lao động Việt Nam tại Hàn Quốc về tình hình dịch COVID-19
          Theo báo cáo của Ban Quản lý lao động Việt Nam tại Hàn Quốc, hiện Việt Nam có gần 50.000 lao động đang làm việc tại Hàn Quốc, chủ yếu đi theo Chương trình cấp phép việc làm cho người nước ngoài làm việc tại Hàn Quốc (EPS); trong đó có hơn 4.000 lao động Việt Nam ở 2 vùng dịch lớn là thành phố Daegu và tỉnh Gyeongbuk (Daegu có hơn 1.000 lao động, Gyeongbuk có khoảng 3.000 lao động). Ban quản lý lao động Việt Nam tại Hàn Quốc cho biết, đến thời điểm hiện nay chưa có thông tin về tình hình lao động Việt Nam tại Hàn Quốc bị nhiễm bệnh COVID-19.

          Để giúp người lao động có thể phòng tránh được dịch bệnh COVID-19 đang xảy ra tại Hàn Quốc, các Bộ, ngành liên quan đã có những chỉ đạo cụ thể:

          - Ban Quản lý lao động Việt Nam tại Hàn Quốc đã đề nghị Văn phòng Chương trình cấp phép cho người lao động nước ngoài làm việc tại Hàn Quốc (EPS) và doanh nghiệp theo dõi tình hình dịch bệnh liên quan đến lao động Việt Nam. Các đơn vị này và các tư vấn viên người Việt tại Hàn Quốc đang hỗ trợ lao động Việt Nam tại Hàn Quốc phòng chống dịch, triển khai cung cấp thông tin phòng dịch cho người lao động. Hệ thống các tư vấn viên người Việt tại các trung tâm hỗ trợ lao động cũng thường xuyên cập nhật thông tin cho người lao động Việt Nam, đồng thời khuyến cáo người lao động không nên đến các khu vực đang có dịch và có khả năng chịu ảnh hưởng của dịch; tuân thủ các hướng dẫn về phòng tránh dịch bệnh của cơ quan chức năng Hàn Quốc.

          Để nhận được sự hỗ trợ khi cần thiết, người lao động có thể liên lạc với Ban Quản lý lao động Việt Nam tại Hàn Quốc theo số điện thoại: 010-3248-6886; 010-4356-2505 hoặc số điện thoại của EPS: 010-9892-1712.

          - Cục Lãnh sự-Bộ Ngoại giao và Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn quốc ngày 21/02 đã ra thông báo lưu ý công dân Việt Nam không nên đến các khu vực đang có dịch và có khả năng chịu ảnh hưởng của dịch mà cơ quan chức năng Hàn Quốc khuyến cáo; thường xuyên theo dõi và tuân thủ hướng dẫn của cơ quan chức năng sở tại để phòng tránh dịch bệnh.

          Bộ Ngoại giao đã chỉ đạo Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc chủ động làm việc với các cơ quan chức năng sở tại để tìm hiểu thông tin; thường xuyên báo cáo, cập nhật tình hình dịch bệnh; giữ liên hệ chặt chẽ với công dân Việt Nam đang sinh sống tại Hàn Quốc, thiết lập số điện thoại đường dây nóng để tiếp nhận thông tin và sẵn sàng tiến hành các biện pháp bảo hộ công dân trong trường hợp cần thiết.

          Để nhận được sự hỗ trợ trong trường hợp cần trợ giúp, công dân Việt Nam có thể liên hệ theo số đường dây nóng Bảo hộ công dân của Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc là: +82 10-3622-6618; hoặc số điện thoại của Tổng đài Bảo hộ công dân là: +84 981 84 84 84.

          -  Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Lê Anh Tuấn sáng ngày 23/02 cho biết, đến thời điểm này, Bộ Giao thông Vận tải chưa quyết định việc dừng các đường bay từ Việt Nam đi Hàn Quốc nhưng hiện tại cũng đã bị giảm chung khoảng 65%. Hành khách Hàn Quốc đã đăng ký hoặc mua vé bay sang Việt Nam đã bị hủy. Hiện giờ các chuyến bay từ Việt Nam chỉ chở khách trả về Hàn Quốc.
          - Bộ Y tế chiều ngày 22/02 cho biết, Việt Nam vẫn chưa áp dụng các khuyến cáo, áp dụng hạn chế đi lại hoặc thực hiện giám sát y tế đặc biệt nào đối với hành khách đến/về Việt Nam từ Hàn Quốc. Tại cửa khẩu quốc tế, các hành khách chỉ cần đo thân nhiệt, cung cấp thông tin y tế. Tuy nhiên, Trung tâm đáp ứng sự kiện y tế công cộng khẩn cấp Việt Nam đang theo dõi diễn biến dịch tại Hàn Quốc để đề xuất kịp thời các quyết định mới lên Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch. Việc hạn chế du lịch, cắt giảm chuyến bay, hoặc giám sát y tế với người nhập cảnh chỉ đưa ra trong tình huống cần thiết.

          -  Sở Y tế tỉnh Khánh Hòa ngày 22/02 đã chỉ đạo Trung tâm kiểm dịch y tế quốc tế tỉnh giám sát chặt chẽ tình trạng sức khỏe đối với du khách Hàn Quốc khi đến Cảng hàng không quốc tế Cam Ranh. Ngoài việc đo thân nhiệt, phải áp dụng tờ khai y tế với khách đến từ Hàn Quốc. Theo Sở Du lịch tỉnh Khánh Hòa, những năm gần đây, Hàn Quốc là nguồn khách quốc tế lớn thứ 3 của tỉnh (sau Trung Quốc và Nga) và có tốc độ tăng trưởng tốt. Năm 2019, địa phương đón gần 305.000 lượt khách Hàn Quốc. Từ tháng 01/2020 đến nay, toàn tỉnh đã đón hơn 50.100 lượt khách Hàn Quốc đến thăm quan, làm việc, trung bình mỗi ngày, Khánh Hòa đón 13-15 chuyến bay từ Hàn Quốc…

          3.5. Dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp và khó lường tại nhiều nước trên thế giới

          Dịch COVID-19 bùng phát từ cuối tháng 12/2019 ở thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Đến nay, tính đến 16h 30 phút ngày 24/02/2020. dịch đã khiến 77.150 ca nhiễm và 2.592 ca tử vong ở Trung Quốc đại lục. Nhưng nỗi lo COVID-19 giờ đây không chỉ trong phạm vi Trung Quốc mà nó đã lan rộng sang 33 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Điều đáng lo ngại là trong khi số ca nhiễm mới COVID-19 ở Trung Quốc đại lục được thông báo giảm trong 2 ngày cuối tuần qua, nhưng diễn biến dịch ở những nơi khác trên thế giới lại hết sức phức tạp, nâng tổng số trường hợp dương tính với virus trên toàn cầu lên xấp xỉ 80.000 người.

          * Trung Quốc vẫn là “tâm dịch”

          Kể từ khi bùng phát tại Vũ Hán, Trung Quốc vào cuối tháng 12/2019 đến nay, tình hình dịch COVID-19 vẫn đang gây lo ngại ở quốc gia này bởi những diễn biến phức tạp của nó. Tuy nhiên, không thể phủ nhận số ca nhiễm mới ở nước này đã được ghi nhận giảm liên tiếp. Theo Ủy ban Y tế quốc gia Trung Quốc (NHC), số ca nhiễm mới tại Trung Quốc đại lục trong ngày 23/02 đã giảm so với 648 ca trong ngày 22/02. Ngoài ra, ngày 23/02 cũng là ngày thứ 6 liên tiếp tỷ lệ khỏi bệnh và được xuất viện tính trong một ngày nhiều hơn số ca nhiễm mới ở Trung Quốc đại lục. Cụ thể, 1.846 người đã được ra viện sau khi phục hồi.

          Tính đến hết ngày 23/2 tổng cộng 24.734 bệnh nhân nhiễm đã được xuất viện kể từ khi dịch bùng phát. Trong ngày 23/02, Ủy ban Y tế quốc gia Trung Quốc (NHC) ghi nhận có 24 tỉnh, thành ở Trung Quốc đại lục không có ca nhiễm mới virus SARS-CoV-2 nào.

          Tổng cộng, đến chiều 16h 30 ngày 24/02, Trung Quốc đại lục có 77.150 ca nhiễm nhiễm virus SARS-CoV-2; 2.592 ca tử vong. Trung Quốc khẳng định việc số ca nhiễm mới giảm đáng kể là một dấu hiệu cho thấy họ đã kiểm soát được dịch bệnh nhờ hàng loạt biện pháp, trong đó có cách ly tâm dịch Hồ Bắc và hạn chế sự đi lại của người dân tại các thành phố trên toàn quốc.

          * Nhật Bản - các ca nhiễm tiếp tục tăng

          Nhật Bản cũng là quốc gia đang chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch COVID-19. Tính đến 16h 30 ngày 24/02, nước này có 146 trường hợp nhiễm virus SARS-CoV-2, trong đó có 1 người tử vong. Số ca mắc trên  du thuyền Diamond Princess là 691, trong đó có 3 người tử vong.

          Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe ngày 23/02 đã chỉ thị cho nhóm đặc trách của chính phủ về dịch COVID-19 nhanh chóng soạn thảo một chính sách cơ bản mới nhằm kiểm soát dịch bệnh nguy hiểm này. Thủ tướng Abe chỉ đạo việc kiềm chế tốc độ gia tăng số ca nhiễm là rất quan trọng để kiềm chế dịch bệnh. Vì vậy, ông Abe cho rằng cần phải thực thi các biện pháp đáng tin cậy và hiệu quả.  Theo Thủ tướng Abe, chính sách mới sẽ bao gồm việc cung cấp thông tin cho công chúng và doanh nghiệp về tình hình dịch bệnh, các biện pháp để ngăn chặn sự lây lan của virus SARS-CoV-2 và cung cấp các dịch vụ y tế cho bệnh nhân.

          Trước đó, Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản (MHLW) ngày 20/02 đã đề nghị các đơn vị tổ chức sự kiện có quy mô lớn xem xét lại tính cần thiết của các hoạt động nhằm ngăn chặn sự lây lan của virus SARS-CoV-2.

          Chính quyền thành phố Tokyo của Nhật Bản cũng tuyên bố sẽ hoãn hoặc hủy các sự kiện lớn tổ chức trong nhà dự kiến diễn ra trong 3 tuần tới.

          Đảng Dân chủ Tự do (LDP) cầm quyền ở Nhật Bản do Thủ tướng Shinzo Abe đứng đầu đã quyết định hoãn tổ chức đại hội đảng, với sự tham gia của hơn 3.000 người tại Tokyo vào ngày 08/3, do dịch bệnh COVID-19. Đảng Duy Tân Nhật Bản (JIP) cũng quyết định hoãn đại hội đảng, dự kiến sẽ diễn ra vào ngày 22/3 ở Osaka, với sự tham gia của khoảng 550 người.

          * Italy - nước bùng phát dịch COVID-19 mạnh nhất châu Âu

          Quy mô của dịch COVID-19 đang lan rộng ở Italy trong vài ngày qua. Các trường hợp xác nhận nhiễm virus SARS-CoV-2 gây dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 tại Italy đã tăng đột biến chỉ trong một ngày (ngày 23/02), từ mức 79 người lên 155 người, đồng thời đến nay đã ghi nhận 4 ca tử vong.

          Như vậy, từ 3 ca nhiễm công bố ngày 21/02, chỉ sau 2 ngày cuối tuần, số ca nhiễm ở Italy đã tăng hơn 50 lần và hiện trở thành nơi bùng phát dịch mạnh nhất châu Âu, thậm chí mạnh nhất bên ngoài châu Á.

          Trước tình hình số ca nhiễm COVID-19 gia tăng, Thủ tướng Italy Giuseppe Conte đã công bố triển khai kiểm dịch với tất cả những người đã từng tiếp xúc với người nhiễm bệnh. Chính quyền 4 vùng phía Bắc gồm Lombardy, Veneto, Friuli Venezia Giulia và Piemonte đã mở rộng quyết định đóng cửa đối với tất cả các cấp học và đình chỉ mọi hoạt động liên quan tới giáo dục.

          Thủ tướng Italy Giuseppe Conte ngày 23/02 tuyên bố tất cả các sự kiện thể thao diễn ra ở hai vùng Lombardy và Veneto thuộc miền Bắc nước này sẽ bị đình lại. Hiện Chính phủ Italy đã ban bố lệnh phong tỏa 11 thị trấn, trong đó 10 thị trấn ở Lombardy và thị trấn còn lại ở vùng Veneto lân cận. Khoảng 50.000 người dân sinh sống tại đây không được được phép rời khỏi khu vực cư trú. Chính quyền ở hai vùng trên khu vực cũng yêu cầu các trường học, quán bar, nhà hàng và vũ trường tạm thời đóng cửa để phòng tránh COVID-19 lây lan.

          Người phát ngôn Nhà điều hành đường sắt OBB của Áo ngày 23/02 cũng cho biết nước này đã dừng mọi dịch vụ đường sắt với Italy cả 2 chiều theo tuyến qua Đèo Brenner nhằm ngăn dịch COVID-19 lây lan hơn nữa.

          * Báo động tình hình dịch bệnh tại Iran và một số nước Trung Đông

          Iran xác nhận ca nhiễm COVID-19 đầu tiên vào ngày 19/02. Tuy nhiên, số ca tử vong và nhiễm virus này liên tục tăng chỉ trong vài ngày sau đó. Ngày 24/02, người phát ngôn Quốc hội Iran, Assadollah Abbassi, thông báo đã có thêm 4 ca tử vong mới do nhiễm virus SARS-CoV-2, nâng tổng số ca tử vong tại Iran đến thời điểm này là 12 trường hợp. Số người nhiễm virus SARS-CoV-2 ở Iran tính đến 16h 30 ngày 24/02 là 47 người.

          Trước tình trạng dịch lây lan nhanh, chính quyền Iran đã triển khai hàng loạt biện pháp dự phòng khẩn cấp, trong đó có quyết định tạm thời đóng cửa các trường học và trung tâm văn hóa nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch COVID-19. Giới chức Iran trước đó đã quyết định đóng cửa các cơ sở giáo dục và văn hóa trong vòng một tuần tại 14 tỉnh, thành phố, trong đó có thủ đô Tehran. Bên cạnh đó, Iran cũng quyết định sẽ hủy tất cả các buổi hòa nhạc và sự kiện văn hóa khác trong vòng một tuần. Về lĩnh vực y tế, Cơ quan quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Iran đã ra thông báo yêu cầu các hiệu thuốc ngừng bán khẩu trang y tế, mà thay vào đó, khẩu trang sẽ được phân phối miễn phí tới người dân nước này thông qua các cơ sở do chính phủ quản lý, trong đó ưu tiên cấp phát cho các khu vực đang bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.

          Ngoài Iran, các nước thuộc khu vực Trung Đông như Israel, Liban, Bahrain, Kuwait cũng đều đã ghi nhận các ca nhiễm virus SARS-CoV-2 ở nước mình. Afghanistan, quốc gia ở Nam Á, ngày 24/02 cũng ghi nhận có ca đầu tiên nhiễm chủng mới của virus corona SARS-CoV-2 gây ra dịch COVID-19.

          Để ngăn ngừa dịch bệnh lây lan từ Iran, các nước như Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan, Iraq… đã tạm đóng cửa biên giới với Iran, trong khi Afghanistan cũng tạm ngừng hoạt động đi lại bằng đường hàng không và đường bộ với nước Cộng hòa Hồi giáo này.

          Như vậy, tính đến 16h 30 chiều ngày 24/02, thế giới đã có gần 79.500 ca mắc COVID-19 với gần 2.624 ca tử vong. Điều đáng lo ngại là có những ca nhiễm nhưng không rõ nguồn gốc lây nhiễm. Trước thực tế về số ca nhiễm chủng mới của virus SARS-CoV-2 đang ngày càng gia tăng tại các quốc gia và vùng lãnh thổ bên ngoài Trung Quốc đại lục, giới chuyên gia kêu gọi thế giới cần nâng cao cảnh giác với dịch bệnh hiện vẫn còn nhiều bí ẩn này.

          Trước đó, Tổng giám đốc WHO Tedros Adhanom Ghebreyesus cũng cảnh báo châu Phi có thể sẽ chịu tác động mạnh bởi dịch bệnh vì cơ sở vật chất y tế tại châu lục này còn yếu kém. Ông Ghebreyesus khẳng định, dù hiện nay thế giới vẫn đang trong giai đoạn kiểm soát dịch bệnh lây lan nhưng cơ hội thực hiện được mục tiêu này đang ngày càng thu hẹp, đồng thời cho biết nếu các quốc gia không nhanh chóng huy động nguồn lực để ngăn chặn virus lây lan thì vấn đề sẽ phức tạp hơn rất nhiều.

II. HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÀ NƯỚC VÀ TÌNH HÌNH QUỐC TẾ

          1. EVFTA, động lực thúc đẩy quan hệ Việt Nam-EU

          Việc Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) được Nghị viện Châu Âu (EP) chính thức bỏ phiếu thông qua vào ngày 12/02/2020 là một sự kiện quan trọng, tạo ra bước ngoặt lớn cho quá trình hợp tác Việt Nam-EU đặc biệt là trong bối cảnh hai bên kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

          * Tạo dấu ấn cho 30 năm quan hệ Việt Nam-EU

          Liên minh châu Âu (the European Union, gọi tắt là EU) hiện bao gồm 27 nước thành viên: Bỉ, Đức, Hà Lan, Luxembourg, Pháp, Italy, Đan Mạch, Ireland, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Áo, Phần Lan, Thụy Điển, Ba Lan, Estonia, Hungary, Latvia, Litva, Malta, Séc, Síp, Slovakia, Slovenia, Bulgaria, Romania và Croatia.

          Việt Nam và EU chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 28/11/1990. Từ đó đến nay, quan hệ hai bên phát triển nhanh chóng. Đặc biệt, Hiệp định khung Đối tác và Hợp tác toàn diện (PCA) có hiệu lực từ ngày 01/10/2016 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong quan hệ Việt Nam-EU, tạo cơ sở pháp lý đưa quan hệ song phương sang một giai đoạn phát triển mới với phạm vi rộng lớn và mức độ sâu sắc hơn. Trong những năm qua, lãnh đạo cấp cao hai bên thường xuyên trao đổi và tiếp xúc bên lề các diễn đàn đa phương; phối hợp tốt tại các diễn đàn đa phương và tổ chức quốc tế, đặc biệt trong khuôn khổ hợp tác ASEAN-EU, ASEM, Liên hợp quốc.

          Quan hệ song phương giữa Việt Nam với các đối tác lớn, đối tác truyền thống khác ở châu Âu phát triển tích cực. Việt Nam đã củng cố và nâng tầm các khuôn khổ quan hệ, thúc đẩy các bước phát triển nhiều ý nghĩa trong quan hệ Đối tác chiến lược với Pháp, Đức, Anh, nâng quan hệ với Hà Lan lên Đối tác toàn diện, tiếp tục triển khai mạnh các thỏa thuận đã ký kết, đồng thời trao đổi, thống nhất với các đối tác mở ra những hướng hợp tác mới đầy tiềm năng. Các nước và các đối tác đều coi trọng và đánh giá cao triển vọng phát triển của Việt Nam, mong muốn mở rộng thương mại, đầu tư, tăng cường hợp tác với Việt Nam.

          Bên cạnh hợp tác song phương, hợp tác đa phương giữa Việt Nam và các đối tác châu Âu cũng có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh vị thế quốc tế và khu vực của Việt Nam ngày càng được nâng cao với việc Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN năm 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc năm 2020-2021, Việt Nam và các nước, các đối tác EU đã và đang tăng cường các cơ chế trao đổi, phối hợp nhằm cùng nhau ứng phó với các thách thức toàn cầu, thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, tự do thương mại, giữ gìn hòa bình, an ninh trên quốc tế tại châu Á-Thái Bình Dương cũng như ở Biển Đông, đảm bảo sự thượng tôn của luật pháp quốc tế, tôn trọng Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982).

          Riêng về hợp tác kinh tế, EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam (sau Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc), đồng thời là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam (sau Hoa Kỳ). Trong những năm qua, kim ngạch thương mai hai chiều giữa Việt Nam và EU tăng khá nhanh, từ mức 4,1 tỷ USD năm 2000, lên mức 17,75 tỷ USD năm 2010 và lên 55,8 tỷ USD năm 2018. Theo Tổng cục Hải quan, năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các thành viên EU (28 nước, gồm cả Anh) đạt 56,39 tỷ USD, chiếm gần 11% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt 41,48 tỷ USD, chiếm 15,7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong khi nhập khẩu của Việt Nam là 14,91 tỷ USD, tăng 7,4%, chiếm 5,9% kim ngạch nhập khẩu. Các mặt hàng như dệt may và da giày, điện thoại di động, máy tính, nông sản luôn được coi là các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam sang thị trường các nước EU.

          Việc EP phê chuẩn EVFTA và EVIPA ngày 12/02/2020 vừa qua là dấu mốc quan trọng trong năm kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-EU, đưa quan hệ đối tác giữa EU và Việt Nam lên tầm cao mới, gắn kết chặt chẽ và hợp tác toàn diện, sâu sắc hơn. Theo Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, quyết định phê chuẩn Hiệp định EVFTA và EVIPA trước hết thể hiện sự coi trọng, đánh giá cao của của các nghị sỹ và các quốc gia thành viên EU về vai trò, vị thế của Việt Nam và quan hệ đối tác hợp tác toàn diện Việt Nam-EU. Hai Hiệp định sẽ tạo dựng các khuôn khổ hợp tác song phương lâu dài theo hướng đối tác bình đẳng, cùng có lợi, đóng góp vào với xu thế chung về thúc đẩy liên kết kinh tế quốc tế và phát triển bền vững.

          Với tính chất bổ sung lẫn nhau của hai nền kinh tế, Hiệp định EVFTA và EVIPA được kỳ vọng sẽ giúp hai bên tận dụng tối đa lợi thế và tiềm năng của nhau để cùng phát triển. EVFTA tạo cơ hội cho các doanh nghiệp EU tiếp cận thị trường gần 100 triệu dân của Việt Nam, qua đó tiếp cận sâu hơn thị trường ASEAN và khu vực. Dự kiến, GDP của EU sẽ tăng thêm 30 tỷ USD, xuất khẩu tăng thêm 29% vào năm 2035. Đối với Việt Nam, dự kiến việc thực hiện EVFTA sẽ giúp GDP Việt Nam tăng 4,6% và xuất khẩu sang EU tăng gần 42,7% vào năm 2025.

          Bên cạnh đó, việc phê chuẩn các Hiệp định cũng khẳng định chính sách của EU tiếp tục tăng cường gắn kết với châu Á-Thái Bình Dương nói chung và ASEAN nói riêng. Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh, trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2020, chúng ta sẵn sàng phối hợp thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa EU và ASEAN.

          * Đẩy mạnh công tác chuẩn bị trong nước

          Nếu việc ký kết EVFTA và EVIPA “mở ra chân trời mới” và là “tuyến đường cao tốc quy mô lớn, hiện đại” kết nối Việt Nam với châu Âu như khẳng định của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại lễ ký, thì việc phê chuẩn EVFTA chính là “tấm vé thông hành” quan trọng giúp Việt Nam tiếp cận thị trường đầy tiềm năng của EU.

          Sau khi được EP phê chuẩn, Hiệp định EVFTA sẽ tiếp tục được Quốc hội nước ta thông qua để có hiệu lực. Cùng với đó, các bộ, ban, ngành liên quan cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các thành viên EU để Hiệp định EVIPA sớm được Nghị viện 27 nước thành viên EU phê chuẩn.

          EVFTA có tiêu chuẩn rất cao và bao gồm cả những nội dung mới như lao động, phát triển bền vững, chống đánh bắt cá bất hợp pháp, mua sắm công của các cơ quan Chính phủ... Do đó, Việt Nam đang đẩy mạnh công tác chuẩn bị trong nước để bảo đảm thực thi hiệu quả và tận dụng tối đa các cơ hội ngay sau khi EVFTA được triển khai.

          Về lao động, Quốc hội đã có những bước đi sớm, thể hiện sự chủ động trong công tác chuẩn bị. Quốc hội đã phê chuẩn Công ước số 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về quyền tổ chức và thương lượng tập thể vào tháng 6/2019 và Bộ luật Lao động sửa đổi tại kỳ họp tháng 11/2019 vừa qua. Thời gian tới, sẽ triển khai thực thi một cách đồng bộ các nội dung mới trên để vừa đảm bảo được các lợi ích cho người lao động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vừa đảm bảo giữ vững an ninh-chính trị và môi trường ổn định cho phát triển.

          Đối với các lĩnh vực khác, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành sớm dự thảo Chương trình hành động của Chính phủ thực thi Hiệp định EVFTA. Đây là việc rất quan trọng không chỉ đối với quá trình phê chuẩn mà cả thực thi hiệu quả sau này. Khác với các hiệp định thương mại tự do truyền thống chỉ tập trung vào cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan, Hiệp định EVFTA là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới kèm theo những bước cải cách sâu rộng. Do vậy, các bộ, ngành và địa phương cần bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị, không để lỡ thời cơ từ hiệp định này. Đơn cử như vấn đề xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn việc thực hiện Hiệp định EVFTA, đây là công việc tốn rất nhiều thời gian và công sức, nếu không có chuẩn bị sớm thì không thể hoàn thành khi hiệp định có hiệu lực. Hay như vấn đề đánh bắt cá bất hợp pháp và không khai báo, vừa qua bị EU rút thẻ vàng do còn một số vi phạm. Trong thời gian qua, các bộ, ngành và địa phương đã vào cuộc, tích cực ban hành mới các chính sách và giải quyết các vấn đề còn tồn đọng, nỗ lực để gỡ được thẻ vàng trước khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực.

          Nhằm phổ biến Hiệp định EVFTA tới đông đảo quần chúng nhân dân, đặc biệt là đối tượng doanh nghiệp và cán bộ quản lý nhà nước ở Trung ương cũng như địa phương, Bộ Công Thương thiết lập trang điện tử chuyên sâu về Hiệp định EVFTA tại địa chỉ http://evfta.moit.gov.vn để cung cấp thông tin, giải thích cam kết cũng như kết nối với người dân và doanh nghiệp về EVFTA.

          Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng đã đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền về hiệp định thông qua việc tổ chức các hội thảo, khóa tập huấn chuyên sâu (tập huấn tra cứu cam kết về thuế, tra cứu cam kết về quy tắc xuất xứ…) trải dài hầu khắp các tỉnh, thành phố, vùng miền trên toàn lãnh thổ Việt Nam, tập trung tại các địa phương có các đơn vị được Bộ Công Thương ủy quyền cấp C/O và nơi tập trung các khu công nghiệp lớn, có các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, xuất nhập khẩu.

          Các cơ quan thương vụ ở châu Âu cũng đang đẩy mạnh hoạt động quảng bá hình ảnh, quảng bá sản phẩm và xây dựng thương hiệu ngành hàng, sản phẩm xuất khẩu tại thị trường các nước thuộc Liên minh châu Âu để hỗ trợ doanh nghiệp chúng ta tiếp cận tốt hơn thị trường rất tiềm năng này.

          Về phía các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có sự chuẩn bị tích cực. Bên cạnh việc cải thiện máy móc, công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, nhiều doanh nghiệp còn chủ động tìm hiểu sâu về nội dung hiệp định, cụ thể là các yêu cầu đối với xuất xứ hàng hóa, an toàn thực phẩm, các điều kiện về lao động, môi trường... nhằm khai thác, tận dụng tối đa các lợi ích từ EVFTA.

2. Việt Nam nỗ lực vì một Cộng đồng ASEAN đoàn kết, tự cường, thịnh vượng

          25 năm đồng hành cùng ASEAN, Việt Nam luôn tích cực, chủ động tham gia có trách nhiệm và để lại nhiều dấu ấn quan trọng. Năm 2020, Việt Nam vinh dự đảm nhiệm những trọng trách lớn ở cả tầm khu vực và quốc tế, trong đó nổi bật là vai trò Chủ tịch ASEAN. Ðây là cơ hội để Việt Nam đóng góp thực chất và nhiều hơn nữa vào sự phát triển của Cộng đồng ASEAN.

          * Năm của những sự kiện quan trọng

          Việt Nam chính thức đảm nhận vai trò Chủ tịch Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) từ ngày 01/01/2020. Đây là thời điểm có nhiều ý nghĩa với ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng.

          Với ASEAN, năm 2020 sẽ là một mốc quan trọng trong quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN và tăng cường quan hệ với các bên đối tác. Về nội bộ, ASEAN dự kiến sẽ tiến hành đánh giá giữa kỳ tiến độ thực hiện các biện pháp, dòng hành động và chương trình công tác của Kế hoạch Tổng thể về ba trụ cột thực hiện Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025, Kế hoạch Tổng thể về Kết nối ASEAN 2025 và Kế hoạch Công tác giai đoạn 3 Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI)… Về quan hệ đối ngoại, ASEAN và các đối tác sẽ kỷ niệm 15 năm thành lập Cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+)…

          Đối với Việt Nam, năm 2020 là năm kỷ niệm nhiều sự kiện trọng đại của dân tộc, như: 90 năm thành lập Đảng Cộng sản, 75 năm thành lập nước; đồng thời, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân hiện đang tích cực thi đua lập thành tích chuẩn bị cho Đại hội Đảng XIII. Cũng trong năm này, Việt Nam có nhiều hoạt động ngoại giao quan trọng, đáng kể nhất là việc đảm nhận trọng trách kép Chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021; ngoài ra, năm nay Việt Nam cũng đang thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong vai trò Chủ tịch AIPA 41 (nhiệm kỳ 2019-2020). Đây là những hoạt động ngoại giao quan trọng để Việt Nam thể hiện và nâng cao vị thế, uy tín, cũng như năng lực trên trường quốc tế.

          Bối cảnh nêu trên đặt ra cho Việt Nam nhiều cơ hội để phát huy vai trò, nâng cao vị thế, uy tín, cũng như năng lực trên trường quốc tế; thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII, triển khai Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến 2030. Đồng thời, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, Việt Nam cũng đứng trước nhiều thách thức không nhỏ, nhất là sức ép từ nhiều chiều, đòi hỏi phải chuẩn bị kỹ lưỡng, xác định mục tiêu, phương châm hợp lý, bố trí nguồn lực, lực lượng để vừa đảm bảo thành công trọng trách Chủ tịch ASEAN, vừa hoàn thành tốt các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại quan trọng khác.

          * Cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng lớn

          Với vai trò Chủ tịch, Việt Nam sẽ trực tiếp chủ trì, điều hành 3 tuần lễ lớn gồm Cấp cao ASEAN lần thứ 36 (tháng 4/2020), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và các Hội nghị liên quan (tháng 7/2020) và Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37 và các Cấp cao liên quan (tháng 11/2020). Đây sẽ là dịp quan trọng để Việt Nam thể hiện vai trò Chủ tịch, điều phối quan hệ đối thoại của ASEAN, cũng như tranh thủ thúc đẩy tiếp xúc, hợp tác song phương với các đối tác cả trong và ngoài ASEAN, trong đó có tất cả các nước lớn. Đây là cơ hội lớn để đưa quan hệ song phương đi vào chiều sâu, huy động nguồn lực phát triển và tăng cường hợp tác xây dựng năng lực, hỗ trợ kỹ thuật, khoa học-công nghệ phục vụ phát triển đất nước.

          Đứng trước vai trò này, Việt Nam có nhiều thuận lợi, trong đó, thuận lợi lớn nhất phải kể đến là những thành tựu to lớn của đất nước sau hơn 30 năm đổi mới. Từ một nước nghèo nàn lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên thành nước đang phát triển. Trong những năm qua, Việt Nam đã thực hiện thắng lợi nhiều chương trình phát triển kinh tế-xã hội. Nhờ đó, cuộc sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện; tốc độ tăng trưởng GDP duy trì ở mức cao, năm 2017 tăng 6,81%, năm 2018 tăng 7,08% và năm 2019 tăng 7,02%. Đặc biệt, Việt Nam đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về sản xuất nông nghiệp - vượt nhu cầu trong nước và xuất khẩu nhiều sản phẩm đến nhiều quốc gia với khối lượng xếp thứ hạng cao trên thế giới.

          Bên cạnh những thành tựu chung của đất nước, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công trong tiến trình hội nhập quốc tế. Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới và đặc biệt từ khi gia nhập ASEAN vào năm 1995, Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng và nhanh chóng nổi lên là một nền kinh tế phát triển nhanh nhất, một đối tác đáng tin cậy ở khu vực, cũng như trong khối ASEAN. Sau 25 năm gia nhập ASEAN, Việt Nam đã trở thành một trong những thành viên chủ chốt của Hiệp hội.

          Cùng với tiến trình hội nhập, Việt Nam cũng đã tích lũy kinh nghiệm ngoại giao đa phương. Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN năm 1998 và 2010; Chủ tịch APEC năm 2006 và 2017; Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và đang phát huy vai trò là Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021... Có thể thấy, trải qua hơn 30 năm đổi mới, đối ngoại đa phương đã trở thành một bộ phận quan trọng trong tổng thể chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Các hoạt động đối ngoại đa phương của Việt Nam được mở rộng và đi vào chiều sâu ở tất cả các kênh đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại quốc hội và đối ngoại nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, hỗ trợ phát triển và tạo vị thế mới của Việt Nam...

          Thành công trong xây dựng, phát triển đất nước và đối ngoại trong thời gian qua giúp Việt Nam tiếp nhận vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 với tâm thế mới. Tuy nhiên, đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn. Đó là hiện nay ASEAN còn nhiều chia rẽ, còn nhiều bất cập, vấn đề nội bộ; nhiệm vụ của các Chủ tịch ASEAN là làm sao tập hợp được sự đoàn kết, nhất trí, ủng hộ các ưu tiên, trọng tâm mà nước Chủ tịch thúc đẩy; đồng thời làm sao các tác động của tình hình khu vực và thế giới không làm cho ASEAN bị suy yếu. Trong khi đó, nguồn lực của đất nước còn hạn hẹp, lại đồng thời đảm nhiệm vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc...

          * Thúc đẩy 5 ưu tiên, xây dựng Cộng đồng ASEAN gắn kết

          Theo Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Quốc Dũng, Tổng Thư ký Ủy ban ASEAN Quốc gia 2020, khối lượng công việc Việt Nam sẽ đảm nhiệm trong vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 rất lớn, do vậy, đã sớm có sự chuẩn bị. Đặc biệt, từ cuối năm 2018, Ủy ban Quốc gia ASEAN 2020 do Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh làm Chủ tịch đã được thành lập. Ủy ban đã nhanh chóng kiện toàn bộ máy tổ chức gồm Ban Thư ký và các Tiểu ban chuyên môn, có sự tham gia của rất nhiều Bộ, ngành, địa phương. Ủy ban cũng đã đề ra từ sớm lộ trình cũng như kế hoạch công tác trong cả năm, tổ chức họp thường kỳ.
          Từ bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp đặt ra nhiều thách thức đối với chủ nghĩa đa phương, tự do thương mại… các mối đe dọa an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng và xuất phát từ các vấn đề đặt ra cho ASEAN cũng như căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ về xây dựng Cộng đồng ASEAN, Việt Nam đã lựa chọn Chủ đề cho Năm Chủ tịch ASEAN 2020 là: “Gắn kết và Chủ động thích ứng”.

          Với chủ đề này, trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam sẽ thúc đẩy năm ưu tiên, gồm: phát huy vai trò và đóng góp tích cực của ASEAN vào công cuộc duy trì môi trường hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực; thúc đẩy liên kết và kết nối khu vực, nâng cao khả năng thích ứng và tận dụng các cơ hội của Cách mạng công nghiệp 4.0; thúc đẩy ý thức cộng đồng và bản sắc ASEAN; đẩy mạnh quan hệ đối tác vì hòa bình và phát triển bền vững; nâng cao năng lực thích ứng và hiệu quả hoạt động của bộ máy ASEAN.

          Với tư cách là Chủ tịch ASEAN, dự kiến trong năm 2020, Việt Nam sẽ chủ trì hơn 300 hoạt động ở các cấp khác nhau, rộng khắp ở các lĩnh vực và xuyên suốt 3 trụ cột của ASEAN. Trong đó, nổi bật là hai đợt Hội nghị Cấp cao: Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 36 (tháng 4/2020) và Hội nghị Cấp cao Kỷ niệm ASEAN-New Zealand tại Đà Nẵng (tháng 4/2020); Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37 và các Hội nghị có liên quan tại Hà Nội (tháng 11/2020).

          Một hoạt động lớn nữa là Việt Nam chủ trì Đại hội đồng liên Nghị viện lần thứ 41 tại Hạ Long (tháng 8/2020). Ngoài ra, tại Việt Nam sẽ có khoảng 20 Hội nghị cấp Bộ trưởng Ngoại giao, Quốc phòng, Kinh tế, Tài chính, Bộ trưởng phụ trách về tội phạm xuyên quốc gia, Bộ trưởng điều phối 3 trụ cột Chính trị-An ninh, Kinh tế, Văn hóa-Xã hội… Trong đó, quan trọng và quy mô nhất là Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 53 và Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN với các đối tác (tháng 8/2020). Một số hoạt động ngoại giao nhân dân khác cũng sẽ được Việt Nam đăng cai tổ chức, trong đó có Diễn đàn Nhân dân ASEAN (APPF) dự kiến diễn ra vào quý III/2020.

          Với đường lối đúng đắn và kinh nghiệm đa phương dày dặn của Đảng và Nhà nước ta, với sự chuẩn bị công phu và tâm thế tự tin, Việt Nam quyết tâm và ưu tiên cao nhất, thực hiện thành công trọng trách Chủ tịch ASEAN 2020, góp phần xây dựng một Cộng đồng ASEAN ngày càng liên kết chặt chẽ và vững mạnh; qua đó tiếp tục nâng cao vị thế đất nước, tăng cường niềm tự hào dân tộc cũng như niềm tin của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam.

3. Xung quanh việc Philippines chấm dứt thỏa thuận quân sự VFA với Mỹ

          Chính quyền Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte vừa chính thức thông báo chấm dứt Thỏa thuận Các lực lượng thăm viếng (VFA) với Mỹ. Việc Philippines khước từ sự hiện diện quân sự của quân đội Mỹ không chỉ khiến quan hệ đồng minh đứng trước nguy cơ rạn nứt mà còn gây ra những hệ quả nghiêm trọng cho cả hai nước.

          * Chấm dứt thỏa thuận VFA

          Mối quan hệ đồng minh giữa Mỹ và Philippines đã tồn tại từ lâu, được ràng buộc bởi Hiệp ước Phòng thủ chung (MDT) được ký vào năm 1951 và Thỏa thuận tăng cường hợp tác quốc phòng (EDCA) đạt được năm 2014 với chính quyền của Tổng thống Mỹ Barack Obama.

          Trong khi đó, VFA được ký vào năm 1998, có hiệu lực từ năm 1999. Thỏa thuận được coi là khuôn khổ pháp lý cho phép quân đội Mỹ hiện diện tại Philippines, theo đó, tàu chiến, máy bay và hàng nghìn binh lính Mỹ được luân phiên đồn trú tại Philippines, cũng như cho phép các lực lượng Mỹ tiến hành hàng trăm cuộc tập trận quân sự chung thường niên quy mô lớn với binh sĩ Philippines, đồng thời huấn luyện và hỗ trợ nhân đạo. Ra đời trong bối cảnh Philippines đang phải đối phó với những mối đe dọa ngày càng gia tăng từ Trung Quốc trên các vấn đề chủ quyền biển đảo trong khi các căn cứ quân sự của Mỹ tại Philippines đã đóng cửa, VFA ít nhiều đã có tác dụng hữu hiệu bảo đảm an ninh cho Philippines từ đó đến nay.

          Thế nhưng vào hôm 11/02, vừa qua, Philippines cho biết nước này đã chính thức thông báo với phía Mỹ về việc chấm dứt VFA giữa quân đội hai nước. Theo đó, việc Pilippines rút khỏi thỏa thuận sẽ có hiệu lực trong vòng 180 ngày và không cần sự chấp thuận của Mỹ. Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte - người đã công khai từ chối sự liên minh quân sự với Mỹ, đưa ra quyết định trên sau khi một trợ lý thân cận của ông cho biết Mỹ đã hủy bỏ việc cấp thị thực của ông, với lý do liên quan tới cuộc chiến chống ma túy gây tranh cãi của các lực lượng chấp pháp Philippines.

          Theo Người phát ngôn của Tổng thống Philippines, ông Salvador Panelo, quyết định trên được thông báo với phía Mỹ theo chỉ thị của Tổng thống Rodrigo Duterte, đồng thời khẳng định đây là “một hướng đi đúng mà lẽ ra nên thực hiện từ lâu”. Ông Panelo nhấn mạnh: “Đã đến lúc Philippines tăng cường năng lực phòng thủ của mình và không phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia nào khác”. Ông Panelo cho rằng việc Manila chấm dứt Thỏa thuận VFA giữa quân đội hai nước Philippines và Mỹ là động thái “đúng hướng”. Ông Panelo cho biết Tổng thống Duterte quyết định hủy bỏ Thỏa thuận Thăm viếng Quân sự với Mỹ để cho phép Philippines độc lập hơn trong quan hệ với các quốc gia khác. Ông nêu rõ “Việc Philippines tăng cường năng lực quốc phòng chỉ là vấn đề thời gian. Việc phụ thuộc vào một quốc gia khác để có được năng lực phòng thủ của riêng Philippines trước những kẻ thù của đất nước cuối cùng sẽ làm suy yếu và đình trệ các cơ chế quốc phòng. Philippines phải dựa vào chính mình và chấm dứt việc trở thành nước bám vào một nước khác trong việc bảo vệ độc lập và chủ quyền. Hành động cẩn trọng của Philiipines phù hợp và căn cứ vào chính sách đối ngoại độc lập và theo hiến pháp,  trong đó các mối quan hệ đối ngoại của Philippines gắn chặt với lợi ích quốc gia và sự thịnh vượng của người dân”. Theo ông, "nếu bất cứ nước ngoài nào đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ và tấn công chủ quyền của Philippines thì Manila sẽ đứng lên bằng các nguồn lực của chính mình và dũng cảm bảo vệ đất nước”.

          Trong khi đó, phản ứng trước việc Philippines chấm dứt thỏa thuận quân sự kéo dài hơn 2 thập kỷ với Mỹ, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã gạt bỏ những quan ngại xung quanh quyết định của Philippines đồng thời khẳng định rằng quyết định chấm dứt thỏa thuận VFA với Mỹ sẽ tiết kiệm chi phí cho Washington. Trao đổi với báo giới tại Nhà Trắng, ông Trump nêu rõ: “Nếu họ muốn làm điều đó, ổn thôi, chúng ta sẽ tiết kiệm được rất nhiều tiền”. Ông cũng nhấn mạnh “mối quan hệ rất tốt” với Tổng thống Philippines Duterte.    

          Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark Esper thì cho rằng quyết định này là "đáng tiếc", “một động thái đi sai hướng” và Mỹ sẽ “giải quyết vấn đề này” trong 6 tháng tới. Còn trong một sự kiện ở Washington, Cố vấn An ninh quốc gia Nhà Trắng Robert O'Brien đã ca ngợi mối quan hệ đối tác vững chắc với Philippines, nhưng nhấn mạnh Mỹ “không muốn hiện diện ở bất kỳ nơi nào không được chào đón”.

          * Hệ quả nào?

          Trước việc Philippines rút khỏi thỏa thuận quân sự quan trọng kéo dài hơn 2 thập kỷ với Mỹ, giới chuyên gia nhận định quan hệ đồng minh Mỹ-Philippines sẽ khó tránh khỏi rạn nứt đồng thời gây ra những hệ quả nghiêm trọng cho cả Mỹ và Philippines.

          Theo Diplomat, việc hủy bỏ VFA được xem là mối nguy nghiêm trọng nhất đối với liên minh Mỹ-Philipppines từ khi ông Duterte lên nắm quyền. Về mặt song phương, quyết định này sẽ đưa liên minh Mỹ-Philippines quay trở lại giai đoạn đầu những năm 90 của thế kỷ XX, khi quân đội Mỹ không duy trì sự hiện diện trong khu vực để phục vụ các hoạt động phối hợp, triển khai các chiến dịch chung hay xây dựng năng lực, các yếu tố nền tảng và then chốt để đảm bảo một liên minh chặt chẽ. Việc thiếu vắng một thỏa thuận liên quan đến sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Philippines sẽ dẫn tới khả năng hai bên phải tiến hành các cuộc thảo luận hoặc thậm chí là xem xét lại mức độ cũng như tính chất sự hiện diện của lực lượng quân sự Mỹ, nhân tố làm nên hợp tác quân sự Mỹ-Philippines toàn diện và chặt chẽ.

          Việc hủy bỏ VFA cũng sẽ gây ra những hệ quả nghiêm trọng cho cả Mỹ và Philippines. Về phía Mỹ, việc nguyên thủ Philippines đơn phương hủy thỏa thuận quân sự với Mỹ có thể làm suy giảm các lợi ích của Washington tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương khiến Washington gặp khó trong duy trì hiện diện quân sự tại khu vực này trong bối cảnh tham vọng của Trung Quốc đang gia tăng.

          Đối với Philippines, động thái hủy thỏa thuận quân sự với Mỹ của Philippines có nguy cơ gây tổn hại an ninh quốc gia nước này. Hủy bỏ Thỏa thuận VFA cũng đồng nghĩa với việc Mỹ có thể chấm dứt khoản viện trợ an ninh trị giá 550 triệu USD cùng các hoạt động hỗ trợ huấn luyện và tình báo của Mỹ với Philippines. Hơn nữa, phía Mỹ cũng có thể tìm cách sửa đổi, thậm chí hủy bỏ nhiều thỏa thuận quân sự song phương, bao gồm Hiệp ước Phòng thủ Chung hay Thỏa thuận Tăng cường hợp tác Quốc phòng cũng như ngừng các hoạt động tập trận, huấn luyện chung với quân đội Philippines.

          Còn đối với châu Á-Thái Bình Dương nói chung, chấm dứt VFA đồng nghĩa với sự gia tăng bất ổn trong cán cân quyền lực khu vực ở thời điểm cạnh tranh Mỹ-Trung ngày càng căng thẳng. Trên thực tế, về mặt chính sách, liên minh Mỹ-Philippines không được đánh giá cao như các liên minh khác của Mỹ trong khu vực như với Hàn Quốc hay Nhật Bản. Tuy nhiên, cũng giống như việc đóng cửa các căn cứ của Mỹ tại Philippines sau Chiến tranh Lạnh, thực tế việc Mỹ phải đối mặt với sự “quay lưng” của một đồng minh hiệp ước - với nguy cơ tan vỡ liên minh trên nhiều khía cạnh khác - sẽ càng khoét sâu thêm những hoài nghi hiện nay về các sáng kiến chính sách mà Mỹ thúc đẩy, cũng như sự “đồng lòng” của Mỹ và các đồng minh, đối tác khu vực.

          Tuy nhiên, Mỹ và Philippines vẫn còn 6 tháng để cứu vãn tình hình và hiện vẫn chưa rõ quá trình hủy bỏ VFA sẽ thực sự diễn ra như thế nào. Khoảng thời gian sắp tới có thể sẽ đủ để thay đổi quyết định của Manlia. Và ngay cả nếu VFA thực sự bị hủy bỏ, vẫn có lý do để người ta tin rằng liên minh Mỹ-Philippines sẽ tiếp tục đứng vững, và sẽ có những cuộc đàm phán mới về một thỏa thuận tương tự dưới thời Tổng thống Duterte.

4. Thông điệp Liên bang 2020 của Tổng thống Mỹ “Sự trở lại của nước Mỹ vĩ đại”

          Tối 04/2 theo giờ địa phương (sáng 05/2 theo giờ Việt Nam), Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đọc Thông điệp Liên bang lần thứ 3 và cũng là thông điệp cuối cùng trong nhiệm kỳ tổng thống này của ông với chủ đề “Sự trở lại của nước Mỹ vĩ đại” tại Tòa nhà Quốc hội. Đây là một hoạt động thường niên và quan trọng của người đứng đầu Nhà Trắng trong việc đưa ra tầm nhìn, phương hướng và chính sách đối nội cũng như đối ngoại của chính phủ trong cả năm.

          * Các thành tựu quan trọng

          Trong phần đầu của Thông điệp Liên bang năm 2020, Tổng thống Trump đã gửi đi một thông điệp về đoàn kết nội bộ trong đó kêu gọi sự hợp tác và đoàn kết của Quốc hội trong việc thúc đẩy các mục tiêu của nước Mỹ.

          Tập trung vào chủ đề của Thông điệp Liên bang “Sự trở lại của nước Mỹ vĩ đại”, Tổng thống Mỹ Donald Trump đề cập đến một loạt các vấn đề đối nội trọng tâm, trong đó nêu bật các thành tựu quan trọng của chính quyền Mỹ, đặc biệt tập trung vào thành tựu trong lĩnh vực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của ông trong 3 năm ngồi ghế lãnh đạo nền kinh tế hàng đầu thế giới. Theo Tổng thống Trump, dưới sự quản lý của chính quyền, cùng với việc thực hiện các chính sách kinh tế, nền kinh tế Mỹ đạt mức tăng trưởng nhanh chóng với số lượng người Mỹ có việc làm đạt mức cao nhất từ trước tới nay và tiền lương tăng với tốc độ nhanh hơn.

          Trong lĩnh vực dầu mỏ, theo Tổng thống Trump, Mỹ đã trở thành “nhà xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt tự nhiên hàng đầu thế giới”, do “chiến dịch nới lỏng các quy định một cách mạnh mẽ” của chính quyền do ông lãnh đạo.

          Trong lĩnh vực quân sự, Tổng thống Trump cũng khẳng định tăng cường sức mạnh quốc phòng, Tổng thống Trump đặc biệt nhấn mạnh tới lực lượng không gian - một lực lượng quân sự mới - và mức ngân sách “2,2 nghìn tỷ USD” chi cho quân đội trong giai đoạn ông cầm quyền. Ngoài ra, Tổng thống Mỹ Trump cũng đề cập tới vấn đề giải quyết các mối đe dọa an ninh quốc gia, đồng thời cam kết về một triển vọng tích cực và lạc quan về tương lai của nước Mỹ, việc siết chặt tình trạng nhập cư bất hợp pháp, cắt giảm các quy định, thúc đẩy cải cách hệ thống an sinh xã hội, y tế và chăm sóc sức khỏe.

          Đề cập đến vấn đề bảo hiểm y tế, trong bài phát biểu, Tổng thống Trump tuyên bố ông sẽ bảo vệ người dân bị mắc bệnh tật. Tổng thống Trump cũng kêu gọi Quốc hội thông qua dự luật lưỡng đảng nhằm giảm mạnh giá thuốc theo toa. Tổng thống Trump khẳng định: “Tôi kêu gọi dự luật lưỡng đảng nhằm đạt mục tiêu giảm đáng kể giá thuốc theo toa”, đồng thời cho biết ông sẽ ký thành luật ngay sau khi dự luật được Quốc hội gửi lên.

          Tổng thống Trump cho biết ông đã có các cuộc nói chuyện với Thượng nghị sĩ Chuck Grassley, bang Iowa và các Thượng nghị sĩ khác trong Quốc hội nhằm hạ giá thuốc nhanh và hợp lý. Theo ông chủ Nhà Trắng, người dân Mỹ đang phải mua thuốc với giá cao hơn các quốc gia khác cho dù thuốc được sản xuất tại cùng một địa điểm ở Mỹ là không công bằng. Tổng thống  cũng yêu cầu các công ty dược, bảo hiểm và bệnh viện công khai giá thuốc và cắt giảm chi phí đến mức tối đa. Giảm giá thuốc được coi là một lĩnh vực hiếm có được sự ủng hộ của hai đảng Dân chủ và Cộng hòa. Tuy nhiên những nỗ lực giảm giá thuốc hiện vẫn bị đình trệ bởi một số bất đồng cũng như các dự luật cạnh tranh.

          Về chăm sóc sức khỏe, trong bản Thông điệp Liên bang năm nay, Tổng thống Mỹ Trump cũng chỉ trích kế hoạch mà đảng Dân chủ thúc đẩy nhằm mở rộng khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc y tế khi nhấn mạnh kế hoạch này hủy hoại hệ thống chăm sóc sức khỏe của nước Mỹ.

          * Vấn đề thương mại quốc tế và chính sách đối ngoại

          Cùng với những thành tích nổi bật về kinh tế trong nước, trong Thông điệp Liên bang năm 2020 đọc trước Quốc hội Mỹ, Tổng thống Mỹ Donald Trump đề cập một loạt vấn đề thương mại quốc tế và chính sách đối ngoại mà ông tự đánh giá là đã hoàn thành lời hứa đối với cử tri trong chiến dịch vận động tranh cử năm 2016.

          Trong bản Thông điệp Liên bang năm 2020, Tổng thống Trump không đưa ra một tuyên bố hay định hướng chính sách quan trọng nào có thể thay đổi chủ trương cũng như chính sách đối ngoại của Mỹ, thay vào đó tập trung vào những vấn đề mang tính kết quả về thương mại quốc tế như hiệp định thương mại Mỹ-Mexico-Canada (USMCA) cũng như thỏa thuận thương mại giai đoạn 1 với Trung Quốc. Ngoài ra, ông Trump cũng nhấn mạnh đến kế hoạch hòa bình Trung Đông, vấn đề hạt nhân Triều Tiên, cuộc chiến tại Afghanistan, căng thẳng Mỹ-Iran. Đặc biệt, trong vấn đề Afghanistan, Tổng thống Trump tái khẳng định quyết tâm chấm dứt cuộc chiến tại Afghanistan, theo đó thúc đẩy đàm phán với Taliban để rút quân đội Mỹ khỏi chiến trường quốc gia Nam Á này đồng thời cho biết ông không mong muốn giết hại "hàng trăm nghìn người" trong một cuộc chiến không có hồi kết. Trong Thông điệp Liên bang, ông chủ Nhà Trắng nêu rõ: "Chúng tôi đang làm việc để thực sự chấm dứt cuộc chiến tranh dài nhất của Mỹ và đưa binh sĩ Mỹ trở về nhà".

          Về căng thẳng quan hệ Mỹ-Iran, trong bối cảnh nhà lãnh đạo Mỹ Trump phải đối mặt với những chỉ trích gay gắt của đảng Dân chủ liên quan đến những hành động gần đây của chính quyền Mỹ khiến Washington và Tehran đứng bên bờ vực của chiến tranh, Tổng thống Trump cũng đưa ra các lập luận nhằm bảo vệ chính sách đối ngoại của ông đối với Iran. Ông chủ Nhà Trắng khẳng định: “Do các biện pháp trừng phạt mạnh mẽ của Mỹ, nền kinh tế của Iran đang rất tồi tệ. Mỹ có thể giúp Iran hồi phục tốt trong một thời gian ngắn, nhưng có lẽ họ quá kiêu ngạo hoặc quá ngu ngốc để yêu cầu sự giúp đỡ đó,” đồng thời cho rằng điều này sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào nước Cộng hòa Hồi giáo. Tổng thống Trump cũng cho rằng chính quyền Iran phải từ bỏ việc theo đuổi vũ khí hạt nhân, chấm dứt gieo rắc khủng bố, chết chóc và hủy diệt và bắt đầu hợp tác vì lợi ích của chính người dân của mình.

          Năm 2020 là năm thứ 2 liên tiếp Tổng thống Trump đọc thông điệp liên bang trong bối cảnh diễn ra cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ lớn trong nước. Năm ngoái, ông phải lùi thời điểm công bố thông điệp bang do chính phủ bị đóng cửa kéo dài kỷ lục xuất phát từ bất đồng sâu sắc với đảng Dân chủ liên quan đến khoản tiền xây dựng bức tường biên giới giữa Mỹ và Mexico. Năm nay, hoạt động này diễn ra một ngày trước khi Thượng viện Mỹ đưa ra phán quyết cuối cùng liệu Tổng thống Trump có bị buộc tội hay không trong phiên tòa xét xử do đảng Dân chủ khởi kiện với cáo buộc ông lạm quyền và cản trở Quốc hội.

          Với việc nhấn mạnh tới những thành tựu mà Mỹ đạt được trong thời gian qua, Tổng thống Trump muốn truyền tải một thông điệp quan trọng tới cử tri rằng ông đã đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại và đó là một yếu tố quan trọng quyết định lá phiếu cử tri trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2020 mà ông sẽ tái tranh cử.

5. Bộ Quốc phòng trả lời về việc xem xét khởi kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông

Bộ Quốc phòng vừa có văn bản trả lời kiến nghị của cử tri TP Đà Nẵng về việc cần đẩy mạnh tuyên truyền để nhân dân có đầy đủ thông tin chính xác về tình hình trên Biển Đông, xem xét giải pháp khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.

Bộ Quốc phòng vừa có văn bản trả lời kiến nghị của cử tri TP Đà Nẵng do Văn phòng Chính phủ chuyển đến theo Công văn số 11055/VPCP-QHĐP với nội dung: "Cử tri kiến nghị, Chính phủ cần tiếp tục có những giải pháp đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, định hướng tư tưởng và nhất là trên lĩnh vực truyền thông báo chí để nhân dân kịp thời có đầy đủ thông tin chính xác về tình hình trên Biển Đông, đặc biệt là tình hình tại bãi Tư Chính trong thời gian gần đây. Đồng thời, có biện pháp kiên quyết hơn nữa với hành động xâm phạm chủ quyền nước ta của Trung Quốc; xem xét giải pháp khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông".

Trong văn bản trả lời cử tri TP Đà Nẵng, Bộ Quốc phòng nêu rõ trước hết cần khẳng định, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm công tác tuyên truyền, định hướng tư tưởng về bảo vệ chủ quyền biển, đảo, trong đó có lĩnh vực truyền thông báo chí. Chính phủ đã xây dựng Đề án tổng thể tuyên truyền bảo vệ chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Hàng năm và trước các sự kiện phức tạp diễn ra ở Biển Đông, Ban Tuyên giáo Trung ương đã kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn về công tác tuyên truyền, định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước. Các bộ, ban, ngành Trung ương và các địa phương, nòng cốt là Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Ngoại giao đã chủ động xây dựng Đề án, Kế hoạch để đẩy mạnh công tác tuyên truyền biển, đảo bám sát thực tiễn tình hình.

Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền biển, đảo, Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư số 130/2019/TT-BQP quy định tuyên truyền về quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa, Nhà giàn DK1 và các vùng biển, đảo khác của Việt Nam (trước đây là Thông tư số 140/2014/TT-BQP). Đồng thời, chỉ đạo Quân chủng Hải quân ký kết chương trình phối hợp tuyên truyền biển, đảo với 63/63 tỉnh, thành phố và 15 cơ quan Trung ương và thông tấn báo chí. Chỉ đạo các lực lượng Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư tăng cường tuyên truyền cho ngư dân vươn khơi, bám biển, vừa khai thác nguồn lợi kinh tế biển, vừa chủ động đấu tranh với những hành động xâm phạm chủ quyền, an ninh trên biển của các đối tượng từ bên ngoài.

Theo Bộ Quốc phòng, thời gian qua, công tác tuyên truyền, định hướng tư tưởng về bảo vệ chủ quyền biển, đảo được tiến hành đồng bộ, bài bản, hiệu quả, có sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ban, ngành Trung ương và địa phương (Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh) với nhiều nội dung, hình thức phong phú, thiết thực như: Thông tin kịp thời diễn biến tình hình trên biển; hằng năm tổ chức hàng chục đoàn với hàng ngàn lượt người thuộc các cơ quan, đơn vị, địa phương và kiều bào ta ở nước ngoài đi thăm Trường Sa, nhà giàn DK1; biên soạn tài liệu giáo dục, tuyên truyền; đẩy mạnh tuyên truyền trên các kênh báo chí, phát thanh, truyền hình, internet, hệ thống tuyên truyền miệng, thông tin cơ sở; tổ chức các đợt sáng tác văn học, biểu diễn nghệ thuật; tăng cường công tác thông tin đối ngoại về chủ quyền biển đảo, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân cả nước, tạo sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.

Đặc biệt, trước sự việc Trung Quốc đưa tàu khảo sát địa chất HD-8 (Hải Dương 8) xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam tại khu vực bãi Tư Chính gần đây, Việt Nam đã kiên trì xử lý bình tĩnh, đồng thời đấu tranh kiên quyết với Trung Quốc, triển khai đồng bộ, hiệu quả các biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, dư luận, pháp lý và giữ vững trên thực địa.

Bộ Quốc phòng nêu rõ những nỗ lực của ta đã góp phần giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định; kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và các lợi ích chính đáng của ta ở Biển Đông; buộc Trung Quốc phải rút tàu khỏi vùng biển của ta; đồng thời, ta kiểm soát tốt tình hình và an ninh, trật tự xã hội; công tác thông tin tuyên truyền được tiến hành bài bản dưới nhiều hình thức khác nhau; riêng trên các phương tiện truyền thông, báo chí đã có hàng vạn tin, bài phản ánh, bình luận, phân tích sâu sắc trên nhiều góc độ, góp phần giữ vững đoàn kết, thống nhất trong đảng viên và nhân dân. Lập trường chính nghĩa, quan điểm đúng đắn, nhất quán, có cơ sở pháp lý, phù hợp với luật pháp quốc tế của ta đã tranh thủ được sự ủng hộ, quan tâm của các nước khu vực, các nước đối tác lớn và dư luận quốc tế.

Những kết quả và kinh nghiệm trên chính là cơ sở để tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, định hướng tư tưởng, nhất là trên lĩnh vực truyền thông báo chí để cung cấp kịp thời, chính xác tình hình trên Biển Đông, giúp nhân dân yên tâm, vững tin, đồng thuận cao với Đảng, Nhà nước, Chính phủ đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Về việc cần có biện pháp kiên quyết hơn nữa với hành động xâm phạm chủ quyền nước ta của Trung Quốc; xem xét giải pháp khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, Bộ Quốc phòng nêu rõ chúng ta thống nhất rằng, việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo là vấn đề hệ trọng, nhạy cảm, lâu dài. Do đó, quan điểm chung của ta là quán triệt tinh thần "kiên quyết, kiên trì", "dĩ bất biến, ứng vạn biến"; những gì thuộc về nguyên tắc kiên quyết giữ; những gì thuộc về độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ kiên quyết không nhân nhượng, song phải có đối sách phù hợp, vì truyền thống văn hóa giữ nước của chúng ta là hòa hiếu, hòa bình, giữ vững chủ quyền biển, đảo nhưng phải ổn định chính trị, giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước. Trên cơ sở đó, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển, đảo, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của ta theo đúng Luật Biển 1982; vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động, kiên trì giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế; xây dựng lực lượng biển đủ mạnh để xử lý thắng lợi các tình huống; đồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, khu vực, các nước lớn, tránh để bị cô lập; giữ vững quan điểm độc lập, tự chủ không để các nước khác chi phối, lôi kéo, chia rẽ, làm phương hại tới lợi ích quốc gia, dân tộc.

Theo Bộ Quốc phòng, dự báo tình hình Biển Đông sẽ còn diễn biến phức tạp, để đấu tranh kiên quyết hơn nữa đối với các hành động xâm phạm chủ quyền nước ta của Trung Quốc trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung thực hiện đồng bộ, toàn diện các giải pháp về chính trị, kinh tế, ngoại giao, thông tin tuyên truyền trong và ngoài nước, nhất là truyền thông báo chí để nâng cao nhận thức về cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng biển, đảo; cũng như quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong giải quyết tranh chấp trên biển; đồng thời nâng cao lòng yêu nước, tạo sự đồng thuận trong xã hội và sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế trong đấu tranh bảo vệ, giữ gìn chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Bộ Quốc phòng nêu rõ cần tích cực chuẩn bị, thu thập tài liệu, chuẩn bị sẵn hồ sơ đấu tranh pháp lý đưa ra quốc tế vào thời điểm phù hợp; kiên quyết phản bác các luận điệu xuyên tạc, lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông để kích động, lôi kéo gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Cùng với đó, cần đẩy mạnh các giải pháp về quốc phòng, an ninh, có phương án bảo vệ vững chắc chủ quyền trên thực địa, sẵn sàng đấu tranh với các nhóm tàu Trung Quốc có khả năng xâm phạm vùng biển của ta, cũng như chủ động bảo vệ an ninh, an toàn, trật tự xã hội trên các tỉnh, thành, địa phương trong cả nước, đặc biệt trong các tình huống trên biển có diễn biến phức tạp xảy ra, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, củng cố tình hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

          BAN TUYÊN GIÁO THỊ ỦY


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



 Bình luận


Mã xác thực không đúng.
    Bản đồ thị xã Kỳ Anh
     Liên kết website
    Thống kê: 2.717.001
    Online: 40